Nón Chuông: Giữ nghề truyền thống, lan tỏa văn hóa Việt ra thế giới
Nghệ nhân Lê Văn Tuy, chủ Cơ sở nón lá Lê Văn Tuy (xã Thanh Oai, Hà Nội), chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương về hành trình gìn giữ và đổi mới nghề nón truyền thống giữa thời hiện đại.
- Ông có thể chia sẻ về những thay đổi lớn mà nghề làm nón đã trải qua so với trước đây không? Những thay đổi này ảnh hưởng thế nào đến đời sống của các nghệ nhân?”
Ông Lê Văn Tuy: Nghề làm nón ngày nay đã trải qua nhiều thay đổi. Nếu trước đây nón chủ yếu dùng để che mưa nắng, thì hiện nay nó trở thành đạo cụ sân khấu, sản phẩm thời trang hay quà lưu niệm du lịch. Nhu cầu sử dụng trong đời sống thường nhật giảm mạnh, giống như nhiều sản phẩm thủ công khác dần bị thay thế bởi đồ nhựa. Làng nghề truyền thống vì vậy cũng ngày càng có nguy cơ mai một. Với những nghệ nhân như chúng tôi, trong nỗi buồn ấy vẫn có niềm vui khi nhìn thấy đất nước phát triển và đời sống thay đổi.

Nghệ nhân Lê Văn Tuy, chủ Cơ sở nón lá Lê Văn Tuy (xã Thanh Oai, Hà Nội) trình diễn nghề tại Triển lãm quảng bá, giao thương kết nối sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ, làng nghề phục vụ du lịch xã Thanh Oai. Ảnh: N.H
Dù vậy, đầu ra cho sản phẩm của tôi vẫn tương đối ổn định nhờ mạng lưới khách hàng rộng khắp cả nước. Nhiều khách hàng ở xa cũng đặt hàng. Ví dụ, đợt vừa rồi, Đại sứ quán Việt Nam (Bộ Ngoại giao) đã đặt tới 3.000 chiếc nón để chuyển sang Đại sứ quán tại Bulgaria. Chính những đơn hàng này là động lực để chúng tôi tiếp tục theo nghề và không ngừng sáng tạo.
Điển hình là sản phẩm “nón nhà sư”, một thiết kế đặc biệt do tôi nghiên cứu và phát triển. Trong nhiều chuyến tham dự hội thảo từ Nam ra Bắc, tôi nhận thấy trang phục của nhà sư như áo cà sa hay giày dép đã được quan tâm, nhưng gần như chưa ai đề cập đến chiếc nón dành riêng cho tăng ni. Từ đó, tôi mạnh dạn tìm hiểu và sáng tạo mẫu nón chuyên biệt này.
Để hoàn thiện sản phẩm, tôi đã đến nhiều ngôi chùa và trực tiếp xin ý kiến các nhà sư. Các thầy đánh giá rất cao bởi chiếc nón thể hiện được sự thanh cao. Nón nhà sư có đặc điểm khác biệt so với nón thường, đường kính phải lớn hơn để hài hòa với áo cà sa có phom dáng rộng. Tuy nhiên, nếu giữ nguyên cấu trúc truyền thống mà mở rộng đường kính thì nón sẽ bị cao, mất đi vẻ trang nhã. Vì vậy, tôi đã điều chỉnh nón thấp hơn, tạo tổng thể thanh thoát, phù hợp với phong thái của nhà sư. Sản phẩm nhanh chóng được đón nhận, không chỉ trong nước mà cả ở Ấn Độ và nhiều quốc gia có Phật giáo phát triển.
Năm 2023, tại Ngày hội Báo chí toàn quốc tổ chức tại Bảo tàng Hà Nội, chiếc nón nhà sư được trưng bày và nhận nhiều lời khen ngợi từ giới báo chí. Sản phẩm cũng giúp tôi đạt các giải thưởng của TP. Hà Nội và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Tôi thực sự phấn khởi khi những sản phẩm của mình như những “đứa con tinh thần” ngày càng được nhiều người biết đến và trân trọng.
- Với số lượng nghệ nhân trong làng ngày càng giảm, ông đánh giá thế nào về vai trò của thế hệ trẻ trong việc kế thừa và phát triển nghề làm nón?
Ông Lê Văn Tuy: Trong bối cảnh xu hướng chung, nghề nào cũng có nguy cơ mai một. Tuy nhiên, tại làng Chuông, nơi gìn giữ nghề làm nón lâu đời ở xã Thanh Oai, những người thợ vẫn không ngừng đổi mới để phù hợp với nhu cầu thị trường hiện đại.

Cơ sở nón lá của nghệ nhân Lê Văn Tuy có 5 sản phẩm đạt OCOP 4 sao, gồm: Nón chum, nón cô dâu, nón lá truyền thống, nón hai mặt vải, nón mặt vải ngoài. Ảnh: N.H
Nón Chuông truyền thống ngày xưa có mẫu mã riêng, nhưng nay đã được cải tiến để hòa nhịp với đời sống hiện đại. Kết cấu bên trong vẫn giữ nguyên tinh hoa truyền thống, trong khi bên ngoài được bổ sung lớp vải phù hợp với trang phục người sử dụng. Ví dụ, sự thay đổi của áo dài ảnh hưởng trực tiếp đến nón lá, các bà, các mẹ mặc áo màu gì có thể chọn nón cùng màu. Ngoài ra, khách nước ngoài còn ưa chuộng các họa tiết trang trí theo sở thích và chúng tôi linh hoạt đáp ứng để phù hợp thị hiếu. Đây là cách để nghề nón vừa giữ được cốt cách truyền thống, vừa không ngừng sáng tạo, hòa nhập với thời đại.
Sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là AI và các nền tảng thiết kế, cũng mở ra nhiều hướng sáng tạo mới. Giờ đây, các bạn trẻ có thể dùng công nghệ để vẽ họa tiết lên nón, giúp câu chuyện truyền thống được kể lại theo cách hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc.
Nếu ngày xưa 100% người trong làng làm nón, nay con số chỉ còn khoảng 30%. Tuy nhiên, nhiều bạn trẻ sau khi học xong vẫn muốn tiếp nối nghề, hoặc hỗ trợ các công việc cuối tuần, nghỉ hè. Những nỗ lực này đã mang lại thành tích đáng kể, với một số bạn từng đoạt giải “Bàn tay vàng” và “Bàn tay bạc” trong các cuộc thi thanh niên TP. Hà Nội. Dù làng nghề không phải nơi tạo ra giàu có nhanh chóng, nhưng vẫn đủ nuôi sống những người gắn bó và truyền tải giá trị văn hóa truyền thống. Chỉ cần tạo cơ hội và môi trường trải nghiệm, các bạn trẻ vẫn sẵn lòng theo nghề.
Tôi đã đến nhiều trường đại học tại Hà Nội và mỗi lần như vậy, các bạn sinh viên đều đón chào nồng nhiệt. Nhiều em chia sẻ rằng sau những buổi gặp gỡ, các em càng yêu quý nghề hơn. Trong hơn hai tháng qua, tôi được mời tham gia nhiều buổi biểu diễn. Các nhân viên trên tàu du lịch nhận xét rằng khi tôi xuất hiện, không khí trở nên sôi nổi, khách hào hứng hơn hẳn. Đó là niềm vui lớn, khi thấy nghề truyền thống được trân trọng và lan tỏa đến cộng đồng.
Nhiều du khách nước ngoài khi đến thăm làng Chuông đều bày tỏ sự ngạc nhiên trước nền văn hóa đặc sắc. Họ chưa từng thấy nơi nào mà ba, bốn thế hệ cùng quây quần gìn giữ và kể chuyện truyền thống. Dù thu nhập từ nghề nón không cao, giá trị văn hóa mà nó mang lại là vô giá. Công việc này giúp các cụ có niềm vui, con cháu yên tâm đi làm, và duy trì truyền thống gia đình, gắn kết cộng đồng.
- Trong thời đại 4.0 và công nghiệp văn hóa, ông nhìn nhận thế nào về vai trò của những sản phẩm thủ công truyền thống như nón lá trong việc trở thành ‘đại sứ văn hóa’?
Ông Lê Văn Tuy:Xuất khẩu sản phẩm làng nghề không chỉ đơn thuần là bán hàng, mà còn là xuất khẩu câu chuyện văn hóa. Trong thời đại 4.0 và công nghiệp văn hóa, những sản phẩm thủ công truyền thống có thể trở thành đại sứ văn hóa, lan tỏa tinh hoa Việt Nam ra thế giới. Tôi mong rằng nghề làm nón cũng có thể chuyển mình, sáng tạo ra nhiều mẫu mã mới.
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều vùng nghề làm nón như Thái Bình, Nam Định, Thái Nguyên… mỗi nơi đều mang đậm nét văn hóa vùng miền riêng. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng trong tương lai, như gạo Đồng Tháp ngày xưa trở thành thương hiệu ‘gạo Việt Nam’, chiếc nón cũng sẽ vượt ra khỏi ranh giới vùng miền, trở thành biểu tượng văn hóa Việt Nam được bạn bè quốc tế nhận diện.
Xin cảm ơn ông!
Nón ngày nay không chỉ đơn thuần để đội, mà còn mang trong mình một phần văn hóa Việt Nam. Để đáp ứng thị hiếu mới của người tiêu dùng, những người làm nón phải liên tục sáng tạo. Tại làng Chuông hiện nay, các sản phẩm rất đa dạng, từ nón mini chỉ bằng gang tay đến nón có đường kính 2–3 mét, với đủ hình dáng vuông – tròn, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
1 giờ trước
1 giờ trước
1 phút trước
3 phút trước
11 phút trước
13 phút trước
14 phút trước
16 phút trước
17 phút trước
17 phút trước