🔍
Chuyên mục: Văn hóa

Linh vật của phố

3 giờ trước
Câu chuyện linh thú khoác cho đô thị một chất liệu huyền hoặc mang tính văn hóa dân gian khiến cho không gian văn hóa truyền thống Hà Nội có nhiều biến thể sinh động. Chúng cũng dự phần vào việc tạo ra một đường dẫn 'mềm' kết nối với quá khứ, như một loại tự điển giúp người hôm nay đọc được hồn người xưa.

Nhiều người đã quen với sự tích Lê Lợi trả gươm cho thần Kim Quy (rùa vàng) gắn với hồ Hoàn Kiếm và nhiều thế hệ đã được ngắm những con rùa mai mềm to lớn sống trong hồ này. Trong hồ còn gò Quy Sơn, nơi có tháp Rùa đã thành quen thuộc với hàng triệu người Việt.

Con rùa thật cuối cùng đã chết cách đây gần 10 năm. Nhưng cái hình bóng để lại thì vẫn còn sâu đậm: “Hồ Gươm xanh màu xanh cổ tích. Con rùa vàng gửi bóng ở trên mây” (thơ Nguyễn Duy). Rùa vàng Kim Quy còn xuất hiện trong nhiều truyền thuyết khác trên mảnh đất Hà Nội như câu chuyện giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Nhưng rùa thần cũng chỉ là một loài trong bộ sưu tập linh thú đầy huyền thoại của mảnh đất này.

Gửi bóng ở trên mây

Ngay từ sự ra đời của Thăng Long đã thể hiện sự gắn liền với con vật huyền thoại là rồng, khi chính sử cũng đã ghi lại truyền thuyết khi thuyền của Lý Công Uẩn đến chân thành Đại La thấy rồng vàng từ dưới nước bay lên. Chiếu dời đô của vị vua này đã dành lời mô tả kinh đô tương lai có thế rồng cuộn hổ ngồi (nguyên văn: “đắc long bàn hổ cứ chi thế”). Việc tạo cho không gian văn hóa đô thị một “lý lịch linh vật” đã khiến cho đời sống Thăng Long - Hà Nội có một không khí huyền bí nhưng cũng đượm màu thực tế của một đời sống gắn với tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên trước thời điểm đó, người Việt đã linh vật hóa các ngọn núi, mặt hồ hay dòng sông bằng cách hình dung chúng như những động vật mang quyền năng thần bí.

Truyền thuyết cho biết lúc Cao Biền nhà Đường mới đắp thành Đại La, thấy một vị thần hiện lên, cưỡi rồng đỏ xưng là thần Long Đỗ, tinh anh của đất này, bèn cho lập đền thờ thần. Long Đỗ nghĩa là bụng rồng, một biểu tượng gợi ý về vị trí trung tâm. Khi Lý Công Uẩn xây thành Thăng Long nhiều lần sụp, đến cầu khấn vị thần này, được thần báo mộng và thấy một con ngựa trắng đi từ đền thờ ra, ông cho xây thành theo đường ngựa đi thì vững. Ông cho đổi tên đền là Bạch Mã và tôn vinh thần Long Đỗ làm thành hoàng đất kinh đô.

Rồng ở thềm bậc điện Kính Thiên, thời Lê sơ, hoàng thành Thăng Long.

Tất nhiên ở mảnh đất kinh đô, con rồng còn đại diện cho đế vương nên hình tượng rồng phổ biến ở kinh thành là dễ hiểu. Từ tên gọi Thăng Long nghĩa là rồng bay lên cho đến khu hoàng thành được gọi là Long Phượng thành, các hình rồng hiện diện nhiều trên các trang trí kiến trúc cung đình đến các công trình tín ngưỡng cộng đồng. Sân chầu từng có tên Long Trì, được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng dùng để đặt tên cho tiểu thuyết Đêm hội Long Trì. Những di vật điêu khắc hình rồng, phượng chính là những thứ nổi bật trong các cuộc khai quật từ lòng đất của hoàng thành Thăng Long.

Trong tứ linh (long, lân, quy, phượng), duy con rùa là sinh vật có thật và cũng thực sự tạo ra một hệ sinh thái của “đất Kiếm Hồ”. Rùa là loài vật được xem vững chãi, trường thọ nên thường được lấy làm hình tượng cho phần chân đế các điêu khắc “lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia”. Sau rùa hồ Gươm, những con rùa đội bia trong Văn Miếu là hình tượng quen thuộc đến độ từng có thời sĩ tử hiện đại đổ xô đến sờ lấy may. Tám mươi hai con rùa đá còn lại ở Văn Miếu nổi tiếng vì giá trị lịch sử và nội dung của những tấm bia đề danh tiến sĩ mà chúng đội suốt hơn 300 năm từ khóa thi 1442 đến 1779.

Đền Ngọc Sơn ở hồ Gươm, nơi trưng bày tiêu bản một con rùa từng sống trong hồ cũng có hình long mã và kim quy hai bên cổng Đắc Nguyệt Lâu (“lầu được trăng”), lối vào từ cầu Thê Húc, thể hiện các khái niệm Hà Đồ, Lạc Thư trong Kinh Dịch.

Hình Kim Quy và Long Mã ở cổng Đắc Nguyệt Lâu, đền Ngọc Sơn, ảnh tư liệu thời Pháp.

Một con rùa khác gắn với một pho tượng nổi tiếng bậc nhất Thăng Long là tượng đồng đen Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh. Bức tượng tạc vị thần trấn phương Bắc kinh thành có tay trái bắt ấn, tay phải tì trên đốc kiếm cắm thẳng xuống lưng rùa. Quấn quanh kiếm là một con rắn trong tư thế đang lao xuống. Một pho tượng đồng khác tương tự ở ngôi đền cùng tên Trấn Vũ ở thôn Ngọc Trì, Thạch Bàn (Long Biên) cho thấy tín ngưỡng thờ vị thần này khá quan trọng, đặc biệt liên quan đến các yếu tố linh thú như cách diễn giải của cư dân: “Đền được dựng trên thế đất linh quy xà hội tụ, quay mặt về phương Bắc. Trên cánh đồng Ngọc Trì có gò đất hình con rùa nổi lên. Sau đền là đê sông Hồng, tượng trưng cho con cự xà (rắn lớn) quấn quanh”. Chọn câu chuyện rùa thần đoạt kiếm của vua Lê hay mô tả thế đất hình rùa, rắn là sự kiến tạo lớp hào quang cho những cảnh sắc núi sông thuần túy.

Với hồ Tây, mặt hồ lớn nhất nội thành Hà Nội này cũng có nhiều truyền thuyết về các sinh vật. Ít nhất hồ có hai cái tên dân gian từng gọi gắn với các loài vật, cả linh thú lẫn yêu quái: Trâu Vàng (Kim Ngưu), Xác Cáo. Truyền thuyết kể về con hồ ly tinh chín đuôi đã bị Long Quân diệt trừ (Long Quân cũng lại là một yếu tố liên quan con rồng), tạo nên một đầm nước lớn. Ngày nay, phía tây của hồ còn địa danh Hồ Khẩu (chữ “hồ” mang một nghĩa là cáo) hay làng Cáo Đỉnh (Xuân Đỉnh), liên quan đến sự tích này. Còn cái tên Kim Ngưu liên quan đến ít nhất ba truyền thuyết về con trâu vàng, một hình ảnh huyền thoại hóa của loài vật gắn với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước: “Nọ vực Trâu Vàng trăng nhạt bóng, kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ” (Hồ Xuân Hương).

Cũng ở quanh hồ Tây là đảo Kim Ngư (cá vàng), nơi có chùa Trấn Quốc, đối diện qua đường Thanh Niên là đền Thủy Trung Tiên, còn gọi là đền Cẩu Nhi. Đền này gắn với sự tích con chó ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), quê của Lý Công Uẩn, đẻ ra con sắc trắng có đốm đen hình chữ “thiên tử” là điềm báo vị họ Lý tuổi tuất này sẽ lên làm vua. Trong khi đó, về phía nam là gò Mỏ Phượng (“phượng chủy”), nay là phần bán đảo nhô ra hồ phía sau trường THPT Chu Văn An, tức “non Phượng Đất” trong câu thơ Hồ Xuân Hương, chầu về phía đền Quán Thánh.

Sóng muôn ngựa dạt dào cuộn

Địa hình vùng Thăng Long xưa đã tạo ra phong tục sinh hoạt gắn với các khu đất cao ráo hay vùng sông hồ ngập úng, từ đó nảy sinh việc gán hình tượng các loài vật giúp họ cố kết những giá trị văn hóa nơi chốn. Một bài ký trên bia về việc vợ chồng ông Thành Mậu Cường và bà Hoàng Thị Liên, làm nghề hàng thịt, hiến đất và tiền bạc cho làng Hồng Mai (nay là Bạch Mai) năm 1669 để thờ hậu, đã mô tả cảnh sắc vùng nam Thăng Long với những cảnh quan được thiêng hóa bằng hình tượng các linh thú: “Phía trước, đầm Thịnh Liệt sóng muôn ngựa dạt dào cuộn, mạch tụ Thăng Long; phía sau, tháp Báp Thiên núi Tam Sơn chót vót cao, khí đọng Ngưu Thủy. Bên trái, Mai Động nổi gò, hình phượng rắn chuyển mình. Bên phải, Tô Lịch vòng quanh, ánh nhật nguyệt chiếu sáng” (Tư tài bi ký - Tuyển tập văn bia Hà Nội, tập 2, NXB KHXH, 1978).

Trang trí đất nung hình chim phượng, thời Lý, hoàng thành Thăng Long.

Những ngựa, trâu, phượng, rắn là những mỹ từ tô điểm cho bài văn bia, phản ánh thế giới quan của người xưa khi lấy chính mình làm trung tâm cuộc chế ngự thiên nhiên. Một số nhà nghiên cứu như Trần Đình Hoành đã nhận định các văn bản ghi lại các câu chuyện mang tính thuyết vật linh bắt nguồn từ tôn giáo sơ khai của con người, song trong xã hội Nho giáo Việt Nam, chúng còn là kết quả của một hệ hình tư duy triết lý “nhân chủ”, lãnh thổ và văn hóa phục vụ đạo đức.

Nếu như các dòng sông, mặt nước hay vùng trũng thường là nơi các sinh vật dưới nước hay lưỡng cư được nhắc đến thì những gò đất cao được gọi là “núi Voi”, “núi Bò”, như dọc khu vực Hoàng Hoa Thám đến Liễu Giai. Vùng đất cao ráo này nằm phía tây kinh thành, được xem như đoạn cuối của mạch tạo sơn kéo từ Ba Vì xuống, có hai ngôi đền cùng được gọi là đền Voi Phục, ở Thụy Khuê và Thủ Lệ, thờ một nhân vật huyền sử là Linh Lang đại vương, hoàng tử thời Lý cưỡi voi phá giặc Tống. Hình tượng voi chầu ở các đền thờ hay lăng miếu khá phổ biến nhưng ở mảnh đất kinh đô hẳn gây ấn tượng đủ mạnh để người ta không mấy người biết tên chữ các ngôi đền này (Linh Lang từ) mà lại nhớ đến cái tên biểu hình một loài thú lớn. Giờ đây, con voi đã không còn ngoài tự nhiên giữa đô thị, cái tên Voi Phục như sự kháng cự của cổ tích trước sự điển chế hóa và hiện đại hóa.

Hình tượng Bạch Mã gắn với sự hình thành thành Thăng Long mang tính huyền thoại, còn trên thực địa có một khu vực trại ngựa của vương triều Lý - Trần, nằm trong vùng Thập Tam trại, chính là Kim Mã. Vùng này gắn với sự tích một nhân thần họ Hoàng người làng Lệ Mật đã có công chém được rắn, vớt được xác công chúa nhà Lý trên sông Thiên Đức (sông Đuống). Vị này xin cho dân làng được lập ấp ở khu vực rừng rậm hoang vu phía tây thành Thăng Long, từ đó hình thành 13 làng, trong đó có trại Kim Mã. Trong khi Lệ Mật vẫn còn được biết đến với lễ hội chém rắn và nghề bắt rắn thì trại ngựa đã chỉ còn lại cái tên một đường phố dài đi từ cửa ô Thanh Bảo về phía tây, cũng được gọi là ô Kim Mã.

Tượng voi phục ở cổng đền Voi Phục (Thủ Lệ), ảnh tư liệu năm 1926.

Nếu ở Huế có điện Voi Ré và Hổ quyền, nơi diễn ra các nghi thức và cuộc giải trí liên quan voi, hổ của các vua nhà Nguyễn thì ở Thăng Long, chúa Trịnh cũng lập một cái miếu tên là Dương Võ, thờ ba vị tiên sư nghề dạy voi trận và các tướng sĩ trong đoàn quân voi trận, cạnh chùa Phổ Giác, hay còn gọi là chùa Tàu do ở khu Tàu Tượng, một cái tên liên quan đến nơi quản voi. Miếu và chùa ở bờ đông hồ Gươm, gần phủ chúa. Năm 1884, các di tích này bị dời về khu Hàng Đũa (nay là Ngô Sĩ Liên) để lấy đất xây tòa Đốc lý. Văn bia dựng năm 1770 có viết:

“Cuối năm Đinh Sửu [1757], ban cho một thửa đất công, thuộc phường Phục Cổ trong kinh thành để xây dựng tòa miếu và tạo tượng thờ, lại đặc ban cho tên miếu là Dương Võ, bốn mùa hương khói, phụng sự theo lễ nghi… Nước Nam ta, thế nước vững như trên đầu ngao, bờ cõi gồm có cả Tượng Quận. Các loài vật rất nhiều, nhưng trong loài thú về mặt hùng mạnh, duy có voi là quý hơn cả, thật đã làm nanh vuốt cho việc giữ nước... ” (Dương Võ bi ký, bản dịch của Ban Hán Nôm, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam).

Con voi dần biến mất khi Hà Nội không còn tồn tại một tòa thành với hình thái tổ chức quân sự truyền thống mà trở thành một thành phố thuộc địa của Pháp. Hồ nước mang tên hồ Voi trước Cột Cờ thành Hà Nội cũng bị san lấp để làm đường và vườn hoa. Việc một cái miếu thờ các vị quản tượng nhường chỗ cho cơ quan cai trị thực dân ít nhiều phản ánh sự suy vi về mặt biểu tượng, trong khi các hạ tầng cơ sở cho hoạt động duy trì đội binh tượng rõ ràng là đã mất vai trò thực tế.

Ngựa cũng như voi, chỉ còn là những biểu tượng gắn với một lịch sử chiến chinh dài lâu của các triều đại, từ “xã tắc hai phen chồn ngựa đá” (Trần Nhân Tông) đến “nhong nhong ngựa ông đã về, cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn” gắn với công cuộc chống quân Minh của Lê Lợi. Vậy có loài linh thú nào kể câu chuyện sinh kế người dân?

Ngựa đá ở chùa Nga Mi.

Khu vực Linh Đàm, Hoàng Liệt từng gắn với sự tích đầm Mực về hai người học trò con vua Thủy Tề của nhà giáo Chu Văn An đời Trần. Khi trời hạn hán, biết gốc gác học trò, Chu Văn An gợi ý họ có cách nào giải hạn cho người dân. Vâng lời thầy, dù biết có thể chết vì phép trời, họ dùng mực trong nghiên của thầy làm mưa. Cả vùng thoát hạn, nhưng hai người học trò chết, xác hiện nguyên hình thuồng luồng. Thầy giáo và bạn học chôn cất họ, lập miếu Gàn để thờ.

Miếu Gàn ngày nay ở phía nam hồ Linh Đàm, cho đến hiện tại vẫn còn nằm giữa một hòn đảo nhiều cây xanh bên khoảng nước rộng, gợi chút hình dung về cảnh trí u tịch trong khu vực một phường có số dân vào hàng đông nhất Hà Nội. Thuồng luồng hay giao long là loài vật không có thực, cũng như rồng, gắn với những sự tích liên quan vua chúa hay Long Vương - Thủy Tề, vị vua cai quản thế giới nước. Ở đây loài quái vật thường mang tiếng hại người đã trở thành học trò yêu thầy, trọng đạo học, hi sinh thân mình để cứu nhân độ thế.

Câu chuyện linh thú khoác cho đô thị một chất liệu huyền hoặc mang tính “folklore” (văn hóa dân gian), khiến cho không gian văn hóa truyền thống Hà Nội có nhiều biến thể sinh động. Chúng cũng dự phần vào việc tạo ra một đường dẫn “mềm” kết nối với quá khứ, như một loại tự điển giúp người hôm nay đọc được hồn người xưa.

Bài và ảnh: Nguyễn Trương Quý


















Mùa hoài niệm
Báo Lâm Đồng 45 phút trước


Home Icon VỀ TRANG CHỦ