Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội Bạch Liên Hương:Cần cân bằng giữa bảo tồn - khai thác - giáo dục và sáng tạo di sản
Từ những di sản văn hóa vật thể là các công trình, dấu tích kiến trúc, hiện vật lịch sử truyền thống như Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khu phố cổ Hà Nội, đến các di sản văn hóa phi vật thể như ca trù, nghệ thuật rối nước, ẩm thực,... đều góp phần tạo nên bản sắc riêng và là niềm tự hào sâu sắc của người dân Thủ đô. Phóng viên Báo Hànôịmới có cuộc trò chuyện với Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội Bạch Liên Hương để nhìn lại hành trình gìn giữ kho tàng quý báu ấy...

Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội Bạch Liên Hương.
Văn hóa nghìn năm hội tụ và lan tỏa
- Hà Nội được mệnh danh là "Thành phố di sản" với hàng nghìn di tích lịch sử, văn hóa và di sản văn hóa phi vật thể phong phú. Theo bà, nguồn lực văn hóa này của Thủ đô có từ đâu?
- Trong lịch sử hình thành và phát triển hơn 1000 năm, Thăng Long - Hà Nội là sự hội tụ mạnh mẽ bởi không gian văn hóa của 4 tiểu vùng văn hóa: Xứ Bắc, xứ Đoài, xứ Đông và xứ Sơn Nam Thượng. Hà Nội ngày nay đã kế thừa, bảo tồn và tiếp biến văn hóa của các tiểu vùng, đồng thời tiếp nhận những yếu tố văn hóa bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thành một thành phố văn hiến, văn minh và hiện đại.
Với bề dày nghìn năm văn hiến, Hà Nội là địa phương có mật độ di sản dày đặc bậc nhất cả nước, với 6.489 di tích lịch sử - văn hóa, gần 1.793 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, 1.206 lễ hội truyền thống, 1.350 làng nghề… Văn hóa ẩm thực Thủ đô Hà Nội đặc sắc, hấp dẫn, trong đó nhiều món ăn được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như phở Hà Nội, chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Trì, cốm Mễ Trì, cỗ Bát Tràng…
Trên thế giới, ít có thủ đô nào có sự hội tụ văn hóa truyền thống, lịch sử giáo dục lâu đời, cùng nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội, làng nghề thủ công truyền thống, nghệ thuật diễn xướng dân gian như Thủ đô Hà Nội. Những giá trị ấy không chỉ là “ký ức của đất và người”, mà còn là tài sản vô giá của tương lai, là nguồn lực nội sinh mạnh mẽ để xây dựng Thủ đô sáng tạo, văn minh, hiện đại.
- Bà đánh giá công tác bảo tồn, phát huy nguồn lực di sản văn hóa của Thủ đô trong 20 năm qua ra sao?
- Trong hai thập kỷ trở lại đây, Hà Nội đã triển khai đồng bộ nhiều dự án bảo tồn, tu bổ và tôn tạo các di sản, di tích cấp quốc gia đặc biệt như: Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc, khu phố cổ Hà Nội… Công tác tu bổ ngày càng chuyên nghiệp, hạn chế tối đa sai lệch kiến trúc, tôn trọng yếu tố gốc; nhiều không gian văn hóa truyền thống được khôi phục và đưa vào khai thác du lịch hiệu quả. Đáng chú ý, nhiều khu di tích trở thành không gian văn hóa, sáng tạo hấp dẫn của Thủ đô như: Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Di tích Nhà tù Hỏa Lò, Hoàng thành Thăng Long, đền Ngọc Sơn…
Hà Nội cũng là địa phương đi đầu trong việc lập hồ sơ đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh các di sản văn hóa; chú trọng truyền dạy, phục hồi các loại hình nghệ thuật truyền thống; huy động nguồn lực xã hội hóa từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, cộng đồng trong công tác bảo tồn di tích. Những nỗ lực này góp phần làm diện mạo văn hóa Thăng Long - Hà Nội ngày càng phong phú, hiện đại nhưng vẫn đậm dấu ấn lịch sử.
- Quá trình bảo tồn, giữ gìn và phát huy di sản của thành phố chắc hẳn có nhiều khó khăn, thách thức?
- Luôn luôn có thách thức. Việc đô thị hóa nhanh khiến nhiều di sản vật thể có nguy cơ xuống cấp hoặc bị lấn át bởi kiến trúc mới. Công tác tu bổ, tôn tạo di tích ở một số nơi còn hạn chế. Một số loại hình phi vật thể đứng trước nguy cơ mai một khi lớp nghệ nhân lớn tuổi, am hiểu về di sản dần ít đi. Sự thương mại hóa quá mức trong du lịch cũng có nguy cơ làm phai nhạt tính nguyên gốc và chiều sâu văn hóa của nhiều di sản. Những thách thức này đòi hỏi Hà Nội cần có những bước đi dài hơi và sáng tạo hơn, không chỉ để “giữ lại cái đã có”, mà còn để “thổi hồn” vào di sản trong thời đại mới.
Để di sản thành tài sản
- Những năm gần đây, thành phố Hà Nội rất coi trọng phát triển văn hóa, định hướng văn hóa là nguồn lực mới để phát triển Thủ đô. Theo bà, Hà Nội cần những chính sách, mô hình quản lý, hợp tác nào để phát huy tối đa giá trị di sản, biến di sản trở thành động lực phát triển văn hóa, sáng tạo?
- Tôi cho rằng Hà Nội cần hoàn thiện hệ thống chính sách bảo tồn, phát huy theo hướng hiện đại, đồng bộ và dựa trên cơ sở khoa học. Quy hoạch bảo tồn phải gắn liền với quy hoạch đô thị, bảo đảm mỗi can thiệp đều tôn trọng tính nguyên gốc của di sản. Hiện nay, công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy di tích đều do các địa phương quản lý, thực hiện. Hằng năm, Sở Văn hóa và Thể thao vẫn thực hiện công tác kiểm kê, đánh giá các di sản, di tích để cập nhật, bổ sung vào danh sách quản lý trên địa bàn, từ đó có giải pháp hỗ trợ công tác bảo tồn, phát huy tại các địa phương.
Để công tác bảo tồn, phát huy di sản hiệu quả, bên cạnh nỗ lực của cơ quan quản lý, cần thiết lập các hội đồng chuyên môn gồm nhà nghiên cứu, nhà sáng tạo, nghệ nhân, doanh nghiệp văn hóa… Bên cạnh đó là đẩy mạnh xã hội hóa và các mô hình hợp tác công - tư trong bảo tồn và khai thác di sản. Nhiều di tích, không gian sáng tạo, lễ hội có thể được hồi sinh mạnh mẽ khi doanh nghiệp và cộng đồng được tham gia một cách minh bạch và có định hướng, giám sát của Nhà nước.

Du khách tham quan Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Ảnh: Hoàng Lân
- Chúng ta đang trong thời đại 4.0, công nghệ số phát triển với các ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo… Theo quan điểm của bà, các công nghệ mới này có thể được ứng dụng ra sao để giới thiệu, lưu trữ, sáng tạo và quảng bá di sản văn hóa Hà Nội đến công chúng trong và ngoài nước?
- Để phát huy di sản trong đời sống đương đại, tiếp cận với công dân số thì việc chuyển đổi số trong bảo tồn, phát huy di sản là tất yếu. Nhận thức được điều đó, những năm qua, Hà Nội đã tiên phong ứng dụng công nghệ số và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa. Nếu như trước đây, di sản thường chỉ được bảo tồn trong tĩnh lặng, thì nay, nhờ công nghệ, di sản đã “sống dậy”, được “kể lại” bằng ngôn ngữ của hình ảnh, âm thanh, ánh sáng và trí tuệ nhân tạo.
Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một ví dụ điển hình. Tại đây, các chuyên gia đã số hóa toàn bộ 82 bia Tiến sĩ - Di sản Tư liệu thế giới, cùng hàng trăm hiện vật quý bằng công nghệ 3D scanning, kết hợp AR/VR, mô phỏng không gian thực ảo, âm thanh đa kênh. Khách tham quan có thể tương tác trực tiếp, nghe thuyết minh tự động bằng hơn 14 ngôn ngữ, tìm hiểu lịch sử qua tủ sách điện tử 3D. Cùng với đó, tour “Đêm thiêng liêng” tại Di tích Hỏa Lò, “Giải mã bí ẩn Hoàng thành Thăng Long”, hay “Ngọc Sơn đêm huyền bí” đã đưa di sản ra khỏi lối mòn trưng bày tĩnh để bước vào không gian nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ ánh sáng và âm thanh, tái hiện những câu chuyện lịch sử xúc động. Chính những mô hình này đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách, trong đó phần lớn là giới trẻ.
Tuy nhiên, tôi cho rằng với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ, các địa phương, điểm di tích cần thúc đẩy số hóa một cách toàn diện như đầu tư hạ tầng công nghệ số tại các điểm di sản; xây dựng đội ngũ chuyên môn về bảo tồn số; cân bằng giữa trải nghiệm công nghệ và giá trị nguyên gốc của di sản. Tôi vẫn nhấn mạnh rằng, công nghệ chỉ là công cụ, di sản mới là linh hồn, vì vậy, mọi ứng dụng phải tôn trọng sự chân thực và bối cảnh lịch sử.
- Việc khai thác, phát huy di sản để phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó có hoạt động du lịch đang được các địa phương, trong đó có Hà Nội đẩy mạnh. Tuy nhiên, theo bà, làm thế nào để các di sản tiếp tục được gìn giữ mà không bị thương mại hóa quá mức trong thời đại du lịch đại chúng?
- Theo tôi, để phát huy di sản hiệu quả, chính quyền và cơ quan quản lý phải kiên định với nguyên tắc “bảo tồn nguyên gốc”, tránh chạy theo các mô hình tu bổ sai lệch, bê tông hóa. Muốn vậy, mỗi dự án can thiệp vào di sản phải có sự tham gia của chuyên gia bảo tồn, nhà sử học, kiến trúc sư và cộng đồng địa phương. Bên cạnh đó, việc quy hoạch không gian du lịch; nâng cao nhận thức của doanh nghiệp du lịch và cộng đồng dân cư; giáo dục di sản phải được coi là giải pháp lâu dài. Trường học, bảo tàng, không gian văn hóa cộng đồng cần tiếp tục mở rộng các chương trình giáo dục trực quan, đưa di sản vào đời sống học sinh, thanh niên với tinh thần tự hào và trách nhiệm.
Để di sản không bị thương mại hóa quá mức, điều quan trọng nhất là cân bằng giữa bảo tồn - khai thác - giáo dục - sáng tạo. Khi mỗi chủ thể đều có ý thức và trách nhiệm, di sản sẽ không chỉ tồn tại như những dấu tích ngủ quên mà thực sự trở thành nguồn lực văn hóa - kinh tế bền vững, tiếp tục truyền cảm hứng cho cộng đồng hôm nay và mai sau.
- Trân trọng cảm ơn bà!
Hoàng Quyên thực hiện
1 ngày trước
2 ngày trước
21 phút trước
37 phút trước
12 phút trước
1 giờ trước
Vừa xong
5 phút trước
5 phút trước
9 phút trước
12 phút trước
16 phút trước
30 phút trước
30 phút trước
35 phút trước
42 phút trước