🔍
Chuyên mục: Kinh doanh

'Đánh thức' vùng chè cằn bằng chuyển đổi số

26 phút trước
Phú Thọ trước đây là một xóm nghèo ở xã Phú Đô, huyện Phú Lương, nay thuộc xã Vô Tranh, với hơn 90% cư dân là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Cây chè từ bao đời nay vẫn kiên trì bám rễ, xanh lên giữa khó khăn. Những năm gần đây, vùng chè nghèo ấy như được 'thức giấc' khi câu chuyện chuyển đổi số được viết bằng tâm huyết của một người con quê hương. Đó là anh Hoàng Văn Tuấn, Chủ nhiệm HTX chè an toàn Phú Đô.

Anh Hoàng Văn Tuấn (thứ hai từ phải sang).

Sinh năm 1993, giữa vùng đồi núi nghèo Phú Thọ, từ nhỏ Hoàng Văn Tuấn đã quen với cảnh bà con sớm tối quanh nương chè, chăm bẵm từng gốc một như chăm từng mạch sống của mình. Anh cũng chứng kiến những nỗi nhọc nhằn, vất vả của người trồng chè: Đất bạc màu vì thời gian dài lạm dụng phân hóa học, đất đai chai cứng khiến cây chè chậm lớn, sản phẩm làm ra khó bán được giá... Nỗi trăn trở ấy theo anh khi học tập tại Trường Đại học Khoa học (Đại học Thái Nguyên).

Ngày nhận tấm bằng Thạc sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường, cơ hội việc làm rộng mở, nhưng thay vì ở lại thành phố phồn hoa, anh Hoàng Văn Tuấn lại chọn trở về quê hương với niềm tin những kiến thức mình tích lũy được sẽ giúp sức làm phát triển chính nơi mình sinh ra, và muốn sản phẩm chè quê mình vươn được ra thị trường thì phải nâng cao chất lượng.

Sau khi trở về quê hương, việc đầu tiên anh làm là cải tạo lại đất. Anh tìm về những nguyên liệu thân thuộc của vùng núi: Than củi, phân trâu, phân gà, mùn cưa, phân trùn quế… để ủ thành phân hữu cơ bón chè. Nhờ đó, những nương chè như được hồi sinh, chồi non xanh hơn, lá dày và giàu hương hơn.

Sau một thời gian thử nghiệm, anh Tuấn đã vận động được 6 thành viên khác thành lập Hợp tác xã (HTX) chè an toàn Phú Đô, thu hút thêm gần 40 hộ dân liên kết sản xuất. Ngay từ những bước đi đầu tiên, anh đã xác định: Chuyển đổi số là con đường duy nhất giúp nông nghiệp miền núi bứt phá.

Điểm nhấn trong hành trình số hóa vườn chè của anh Tuấn là việc đưa nhật ký sản xuất điện tử Facefarm vào toàn bộ quy trình chăm sóc chè. Đây là cách làm hoàn toàn mới với bà con nơi đây. Dưới sự hướng dẫn kiên trì của anh, từng người một bắt đầu học cách chụp ảnh, quay video, tải dữ liệu lên hệ thống.

Tất cả các công đoạn từ bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh cho đến thu hái đều được lưu lại bằng hình ảnh rõ ràng, tất cả được số hóa, minh bạch.

Anh Hoàng Văn Tuấn chia sẻ về chuyển đổi số trong sản xuất chè cho đoàn viên thanh niên địa phương.

Chuyển đổi số đối với anh Tuấn không dừng lại ở sản xuất mà anh còn muốn thay đổi cả cách mà người trồng chè tiếp cận thị trường. HTX đưa sản phẩm lên website chính thức, mở fanpage, triển khai bán hàng trên các sàn thương mại điện tử, đồng thời áp dụng chấm công điện tử, tính lương tự động, trả lương qua tài khoản ngân hàng. Những việc tưởng như rất xa lạ với người nông dân nay trở thành thói quen hàng ngày.

Nhờ đó, diện tích sản xuất tăng lên 27,2ha, trong đó có 5ha chè hữu cơ, 5ha chè sinh thái. HTX hiện có 6 dòng sản phẩm chủ lực: Trà búp, trà nõn, trà đinh, trà hoa, trà lá và nhân trần trà, với mức giá từ 200 nghìn đến 5 triệu đồng mỗi kg.

Năm 2024, sản lượng chè búp khô đạt 32 tấn - con số ấn tượng đối với một HTX miền núi còn non trẻ. Đặc biệt, trà tôm nõn Hoàng Gia vượt qua gần 700 sản phẩm trên toàn thế giới để giành Huy chương Đồng tại Giải thưởng Golden Leaf Awards (Lá vàng) ở Úc.

Hải Hằng

TIN LIÊN QUAN












Home Icon VỀ TRANG CHỦ